Giếng cổ người Chăm trên đất Quảng Trị
03-09-2025 15:56
Tôi đến Gio An vào tháng 10 năm ngoái ( 2024), rất ấn tượng với những giá trị thiên nhiên và văn hóa vùng đất này. Con đường dẫn vào vùng trung du phía tây bắc Quảng Trị mở ra những sườn đồi đất đỏ bazan, lốm đốm đá tròn xếp như bậc thang tự nhiên. Hai bên là những cánh rừng cao su, thỉnh thoảng bắt gặp vườn chè, hay khoai môn. Đến gần giếng cổ Gio An, tiếng nước róc rách vang lên trước khi tiếp cận; đó là dấu hiệu đầu tiên tôi nhận ra mình đã chạm đến “miền giếng cổ” – nơi người Chăm xưa từng trò chuyện với mạch ngầm bằng thứ ngôn ngữ của đá, của địa hình và của sự kiên nhẫn. Họ không đào giếng thẳng đứng như ta vẫn quen, mà “mở” giếng bằng cách tìm đúng con mắt nước ở chân đồi, xếp gờ đá, tạo bể lắng và máng dẫn, để nước tự chảy êm, mát và trong quanh năm. Chính sự khác lạ đó khiến tôi có cảm giác như mình đang đi sâu vào một “bảo tàng thủy lợi ngoài trời” còn sống, thay vì thăm một di tích đứng yên trong thời gian.
Bên Giếng cổ Gio An
“Bản đồ” nước dưới chân đồi bazan
Đi giữa Gio An, tôi như đang bước trên một tấm bản đồ nước ngầm xen với nước bề mặt: các con lạch nhỏ trong vắt, những bờ kè đá ong xếp khít, những hồ lắng tròn – vuông – bán nguyệt, những đường máng mảnh như nét bút chỉ đủ rộng cho nước đi qua. Kỹ thuật cốt lõi ở đây giản dị mà khôn ngoan: vòng chắn giữ bùn đất, vòng lắng để nước trong, vòng máng dẫn nước ra ruộng đồng. Địa hình trung du – nơi mạch nước lộ ở chân đồi – là điều kiện cốt lõi để người Chăm “thuần hóa” nguồn nước bằng kiến trúc kè đá, thay vì khoan hay đào sâu đụng mạch. Cái tri thức bản địa ấy tạo nên một hệ giếng – bể lắng – máng dẫn hiếm gặp trong văn hóa thủy lợi Việt Nam.
Nước ở đây hè mát, đông ấm – câu mô tả nghe như một ẩn dụ, nhưng đúng là sự thật: những phóng sự gần đây ghi nhận nguồn nước “chưa bao giờ ngừng chảy”, dẫu nắng gió miền Trung có khi hanh đến nứt đất. Tôi cúi người, áp tay xuống mặt nước, cảm rõ độ mát dịu như lùa qua đầu ngón tay, cái mùi “trong sạch” rất riêng của nước ngầm vừa đi qua bể lắng đá ong.
Giếng Cổ Gio An
Một hệ thống giếng
Hệ giếng cổ Gio An gồm 14 giếng rải khắp năm thôn: An Nha, An Hướng, Hảo Sơn, Long Sơn, Tân Văn. Tên giếng nghe rất đời thường và trìu mến: Côi, Dưới, Búng, Trạng, Đào (An Nha); Gái 1, Gái 2, Nậy (An Hướng); Tép, Ông, Bà, Gai (Hảo Sơn); Máng (Long Sơn); Pheo (Tân Văn). Mỗi cái tên là một dấu chỉ công năng hay câu chuyện gắn với cộng đồng: có giếng để tắm, giếng để gánh, giếng chuyên tưới, giếng gắn nếp tục lệ làng. Tôi đứng trước tấm bia “Giếng Ông”, mường tượng về phân ngôi tắm nam – nữ ngày trước; một chút rụt rè cổ xưa lẫn trong tiếng trẻ nô đùa thời hiện đại.
Về niên đại, tài liệu địa phương và báo chí chuyên đề du lịch – văn hóa xác nhận hệ thống giếng này được ước tính hình thành khoảng 1.800 năm trước (có nguồn nêu cao hơn, gắn tới giai đoạn muộn thời Đá mới). Dù còn có biên độ học thuật, điểm đồng thuận là: đây là công trình cổ rất lâu đời, độc đáo cả về kỹ thuật lẫn cảnh quan. Năm 2001, hệ thống giếng được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia; đến 2019, tỉnh Quảng Trị đề nghị đưa vào danh mục Di tích quốc gia đặc biệt – một bước đi cho thấy nhận thức bảo tồn ngày càng rõ rệt.
Từ giếng hệ thống dẫn nước được dẫn đến ruộng xà lách xoong
Cảnh quan thủy canh: rau xà lách xoong và “màu xanh khó tính”
Không đâu dễ nhận ra “giếng – nông nghiệp” như ở Gio An. Nước giếng cổ nuôi cả thảm rau xà lách xoong (dân địa phương còn gọi “rau liệt”) – một loài “khó tính” với nguồn nước: phải trong, mát, lưu thông vừa độ; nếu đục hay ô nhiễm, rau sẽ vàng úa. Đến mùa (từ khoảng cuối thu đến cuối xuân), ruộng rau xanh mướt xòe rộng, những dải đá kè thành đường biên uốn lượn, trẻ con chạy nhảy như trong một công viên thủy sinh tự nhiên. Rau – giếng – con người kết thành một hệ sinh thái văn hóa: thứ cảnh quan “thủy canh cổ đại” vừa hữu dụng, vừa đẹp.
Người dân thu hoạch xà lách xoong
Những lớp kỹ thuật – từ giếng “phức hợp” tới giếng “mở”
Điểm thú vị khi lần lượt thăm các giếng là nhận ra mức độ phức tạp khác nhau trong kiến trúc:
- Nhóm phức hợp như giếng Đào, Trạng, Máng, Gai: thường đủ bể lắng – máng dẫn – hồ chứa – đập nhỏ. Đi dọc bờ đá, tôi thấy lạch nước chia dòng, có đoạn được “thu” hẹp bằng dãy đá tròn xếp hàng, có đoạn lại “mở” ra thành vũng tắm xinh xắn.
- Nhóm đơn giản như giếng Ông, giếng Bà: thiên về bể tắm – bể múc và máng ngắn, chú trọng sinh hoạt. Buổi xế trưa, tôi gặp mấy bác nông dân múc nước rửa tay chân, còn lũ nhỏ cứ chốc lại nhảy ùm xuống lòng giếng; nếp sinh hoạt gắn giếng vẫn còn đó, tự nhiên như hơi thở.
- Giếng “mở” ở chân đồi: kiểu “đón” mạch nước lộ thiên, đào mở nông rồi kè đá trụ tròn; nước mạch đẩy lên theo nguyên lý bình thông nhau, không cần khoan sâu. Nhìn mặt nước rung rất nhẹ dưới bóng cây, tôi hiểu vì sao người ta gọi những giếng như thế là “mắt nước”.
Vì sao giếng “đúng chỗ” đến vậy?
Gio An nằm trên dải đất đỏ bazan trung du, chân đồi là nơi mạch nước thường lộ thiên hoặc dồn tụ. Điều kiện địa chất – địa hình ấy giải thích vì sao người Chăm không đào thẳng đứng, mà kè – mở – dẫn theo thế tự nhiên. Đứng ở Hảo Sơn nhìn xuống, những bậc đá ong nâu sẫm ôm lấy mặt nước trong, mảng xanh rau nối mảng xanh cây; một kiểu mỹ học địa mạo mà kiến trúc giếng cổ làm cho “hiện hình” rất mạch lạc.
Sự lựa chọn vị trí chính xác đến mức ta có cảm giác các chủ nhân xưa nghe được tiếng nói của mạch nước. Ở đâu mạch mạnh – tạo bể lắng; nơi nào cần chia dòng – đặt máng; chỗ nào dân làng cần tắm giặt – mở rộng lòng giếng. Kỹ thuật địa hình ở đây không phô trương, nhưng tinh tế và tiết độ.
Giếng Ông - giếng dùng để đàn ông tắm
“Bản đồ giếng cổ” lan ra Triệu Phong, Cam Lộ
Nếu Gio An là “thủ phủ” giếng – máng, thì Triệu Phong, Cam Lộ… là nơi còn giữ những giếng làng cổ gắn phong thủy và sinh hoạt. Ở thôn Lưỡng Kim (Triệu Phước), giếng Tây được dân làng gìn giữ như trục tinh thần của cộng đồng; còn Mai Lộc (Cam Lộ) có các giếng Cây Thị, Ông Cây… quy mô nhỏ hơn nhưng cũng kè đá – lấy mạch theo lối cổ truyền. Tính cách giếng ở những vùng này thiên về tụ thủy – quy dân, không tạo hệ kênh mương phức hợp như Gio An – nhưng điểm chung vẫn là triết lý thuận theo mạch ngầm, coi nước là hồn vía của làng. (Tổng hợp từ tin chính quyền & báo chí địa phương; khi cần đăng báo in, bạn có thể dẫn thêm nguồn UBND/TTTT tỉnh về danh mục giếng cổ làng nghề).
Bảo tồn một di sản nước
Giếng cổ Gio An không chỉ có giá trị khảo cổ – kỹ thuật; ở tầm quản lý, đây là một di sản nước còn vận hành. Tỉnh Quảng Trị đã xếp hạng di tích quốc gia (2001), và đề nghị nâng hạng đặc biệt (2019); đồng thời quy hoạch vùng bảo vệ hơn 3,7 ha bao gồm 14 giếng, mạch nước ngầm và cảnh quan đệm – một cách tiếp cận đi thẳng vào “hệ sinh thái di tích”, chứ không chỉ bảo tồn phần kiến trúc vật thể. Cùng với đó là hướng làm du lịch cộng đồng: bãi đỗ xe nhỏ gọn, lối đi bộ, sản phẩm nông nghiệp sạch – để di sản tự nuôi mình bằng lợi ích thiết thực cho dân cư.
Tôi gặp một dì rửa rau bên giếng cổ Gio An. Dì bảo, “ở đây rau phải sạch, vì nước sạch; giếng còn, thì rau còn, làng còn”. Câu nói mộc như đất, nhưng gói trọn tư duy bảo tồn hay nhất: giữ giếng không phải chỉ vì hoài cổ, mà vì đó là hạ tầng nước của một lối sống bền vững.
Sử dụng nước giếng cổ
Cảm nhận khác biệt
Đi nhiều miền Trung, tôi đã gặp giếng cổ ở đô thị di sản – Hội An, những giếng làng Bình Định, Ninh Thuận… nhưng Gio An cho tôi một cảm giác khác: giếng ở đây là công trình thủy lợi có hệ thống, gắn với nông nghiệp và địa mạo đồi bazan. Ở đô thị cổ, giếng thường phục vụ sinh hoạt trong không gian kiến trúc phố thị; tại Gio An, giếng “đi cùng” ruộng rau, bờ kè, lạch dẫn, tạo ra một ma trận nước được tổ chức mềm mại theo địa hình. Không gian ấy khiến trải nghiệm vừa thôn dã vừa mang tính kỹ thuật, như thể đang đi trong một phòng thí nghiệm ngoài trời về kỹ thuật nước Chămpa.
Dân Gio An kể – theo truyền miệng – về chuyện một công chúa Chăm đi qua vùng hạn, chống gậy xuống đất mà bật lên một mắt nước; hoặc chuyện giếng Ông – giếng Bà gắn với đôi vợ chồng đã lập nên làng nước, rồi khi mất dân lập giếng để nhớ. Những giai thoại ấy chưa thấy ghi trong hồ sơ học thuật, nhưng chúng nói lên một điều: giếng là món quà thiêng, là nơi cư dân gửi gắm lòng biết ơn các bậc tiền nhân và “thần nước”. Tín ngưỡng ấy lý giải vì sao không ai dám lấp giếng, và vì sao việc nạo vét – tu bổ vẫn được giữ như một nghi lễ đời thường qua bao thế hệ (theo lời kể dân gian).
Gợi ý trải nghiệm
Nếu bạn muốn “nghe” giếng kể chuyện, hãy đi theo nhịp chậm:
- Buổi sáng: đi qua Hảo Sơn – An Nha – An Hướng. Khi mặt trời còn thấp, đá ong ít hấp nhiệt, nước trong như tấm gương. Đứng ở giếng Trạng nhìn dải máng cong rót nước xuống ruộng, bạn sẽ thấy sự tinh tế của thiết kế tiết lưu – dòng chảy vừa đủ, không xói bờ.
- Buổi trưa: ghé giếng Ông/giếng Bà. Ngồi trên phiến đá rêu, nghe trẻ con té nước, bạn sẽ hiểu vì sao nơi này không chỉ là di tích mà còn là sân chơi nước của cả vùng vào mùa nóng kỷ lục.
- Buổi chiều: ăn một bát rau xà lách xoong trộn tỏi ớt, hoặc rau chấm mắm nêm, rồi dạo qua giếng Máng khi nắng chếch, màu đá ong chuyển sang nâu mật ong rất đẹp ảnh.
Một điều nhỏ mà tôi học được ở đây: không chen nước, không xả rác, không giẫm rau. Giếng sống nhờ kỷ luật mềm của cộng đồng – khách thăm chỉ cần “nhập gia tùy tục”, mọi thứ sẽ trôi chảy như chính dòng nước.
Bạn đăng ký hành trình Ký ức Giếng Cổ Tại Đây
Thay cho đoạn kết
Bởi giữa thời đại các dự án thủy lợi – cấp nước hiện đại, hệ giếng cổ Gio An cho ta bài học về thủy văn tiết độ: dùng địa hình và vật liệu bản địa để đạt mục tiêu đủ dùng lâu dài. Bởi trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nguồn nước bền vững cần hơn bao giờ hết – và ở đây, ta thấy một mô hình tổ chức nước cộng đồng vận hành hàng trăm – hàng ngàn năm. Bởi du lịch không chỉ là ngắm – chụp – rời đi; du lịch cộng đồng có thể trở thành lực đỡ cho bảo tồn, khi lợi ích của dân cư gắn trực tiếp với việc giữ giếng sạch – giữ mạch trong. Việc Quảng Trị quy hoạch vùng bảo vệ >3,7 ha, phát triển dịch vụ nhỏ gọn gắn với di tích, là một bước đặt cược đúng đắn vào di sản nước này.
Tôi rời Gio An mang theo vài bó xà lách xoong và một ít nấm mối mà một dì ở Gio An cho khi tình cơ gặp dì ở giếng nước. Khi mà những phiến đá ong tròn lưu lại dấu chân ướt của tôi. Dòng nước vẫn điềm nhiên chảy qua bể lắng, trườn qua rãnh đá, tưới lên một luống rau mới cấy. Tự dưng tôi nghĩ đến ý niệm “di tích sống”: có những di sản ta đứng nhìn, và có những di sản ta cùng sống. Giếng cổ Gio An thuộc về nhóm sau. Nó không chỉ kể chuyện người Chăm – người Việt – người Quảng Trị; nó kể câu chuyện về cách một cộng đồng tổ chức nước để tồn tại và hạnh phúc.
Ở đâu đó, một “công chúa” trong trí tưởng tượng của dân gian vẫn gõ nhẹ đầu gậy xuống đất, gọi dậy một mắt nước mới. Còn chúng ta, những người đi sau, chỉ cần biết cúi xuống uống bằng sự tôn trọng, để dòng nước ngàn năm tiếp tục có chỗ mà chảy.
Tuệ Minh
Bình luận
Bình luận (Tổng cộng 8)
Phong Nha Việt
05-09-2025
Thanh Binh
05-09-2025
Phong Nha Việt
05-09-2025
Hoài Anh
04-09-2025
Đăng Xuân Phái
04-09-2025
Lê Văn Hào
04-09-2025
Lê An
04-09-2025
Cùng chuyên mục
07-08-2025
Quảng Trị tháng 8 – Trải nghiệm mùa Hè
31-07-2025
Có hẹn với Sơn Trà
30-04-2025
Hiền Lương - Bến Hải: Đôi bờ chung một
30-04-2025
Một ngày trên đảo Cồn Cỏ
26-04-2025
Ánh sáng trong lòng Địa đạo Vịnh Mốc
20-04-2025
Về Đồng Hới – Chạm vào vị của biển
10-04-2025