Quảng Trị mới – Khát vọng từ hai miền đất hội tụ

24-06-2025 17:00

1. Tổng quan

1.1 Sự hình thành

Ngày 16/6/2025, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1680/NQ-UBTVQH15 phê chuẩn phương án sáp nhập tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị thành một đơn vị hành chính mới lấy tên tỉnh Quảng Trị. Nghị quyết sắp xếp, hợp nhất hàng loạt đơn vị hành chính cấp xã nhằm tinh gọn bộ máy địa phương Cơ cấu hành chính cấp tỉnh được tổ chức  theo mô hình 2 cấp. Nhiều xã có quy mô nhỏ được nhập lại và đổi tên; chẳng hạn, 4 xã Quảng Hòa, Quảng Lộc, Quảng Văn, Quảng Minh (Quảng Bình) gộp thành xã Nam Gianh, 5 xã Quảng Tân, Quảng Trung, Quảng Tiên, Quảng Sơn, Quảng Thủy nhập thành xã Nam Ba Đồn. Tại Quảng Trị, các đơn vị liền kề cũng được hợp nhất: ví dụ, thị trấn Hồ Xá cùng 2 xã Vĩnh Long, Vĩnh Chấp nhập thành xã Vĩnh Linh, còn thị trấn Cửa Tùng nhập với 3 xã Vĩnh Giang, Hiền Thành, Kim Thạch thành xã Cửa Tùng. Toàn tỉnh mới hình thành 69 xã, 8 phường và 1 đơn vị hành chính - đảo Cồn Cỏ tổ chức lại thành đặc khu Cồn Cỏ. Như vậy, số đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Quảng Trị (mới) giảm còn 78, so với tổng cộng 264 xã, phường, thị trấn của hai tỉnh cũ (Quảng Bình 145, Quảng Trị 119) trước sáp nhập. Nghị quyết 1680 có hiệu lực từ ngày thông qua (16/6/2025) và yêu cầu hoàn thành chuyển đổi bộ máy để tỉnh mới hoạt động từ 01/7/2025; đồng thời đo đạc xác định ranh giới đơn vị hành chính mới trước.

 

1.2 Địa giới hành chính sau sáp nhập

Sau sáp nhập, Quảng Trị (mới) trở thành một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, với địa bàn trải dài từ ranh giới tỉnh Hà Tĩnh ở phía bắc đến Huế ở phía nam. Tỉnh giáp Lào ở phía tây và Biển Đông ở phía đông, nằm trên trục giao thông Bắc – Nam (cách Hà Nội khoảng 500 km, cách TP.HCM khoảng 1.070 km theo Quốc lộ 1A). Về quy mô, tỉnh mới có diện tích tự nhiên khoảng 12.700 km² và dân số gần 1,87 triệu người. Với diện tích và dân số đó, Quảng Trị trở thành tỉnh lớn thứ 10 cả nước về diện tích và khoảng thứ 23 về dân số. 

 

1.3 Dân số, diện tích, tổng sản phẩm

Diện tích Quảng Bình trước sáp nhập là 8.065 km² và Quảng Trị là 4.701 km²; dân số năm 2024 lần lượt khoảng 1.080.000 và 791.000 người. GRDP (tổng sản phẩm trên địa bàn) năm 2024 của Quảng Bình ước đạt ~60.180 tỷ đồng. Quảng Trị ~53.500 tỷ đồng (ước tính), đưa tổng GRDP tỉnh mới lên khoảng 113.700 tỷ đồng, đứng vào khoảng thứ 26/63 tỉnh, thành về quy mô kinh tế.

 

Bản đồ về tài nguyên du lịch Quảng Trị mới

2. Tài nguyên thiên nhiên

2.1 Địa hình

Tỉnh Quảng Trị mới có địa hình hẹp ngang, kéo dài theo chiều Bắc – Nam với dãy Trường Sơn ở phía tây và dải đồng bằng ven biển ở phía đông. Địa hình phân bậc rõ rệt: vùng núi cao tập trung ở biên giới Việt–Lào (nhiều đỉnh cao 1.000-2.000m), xuống trung du gò đồi ở giữa và đồng bằng thấp ven biển. Quảng Bình nổi tiếng với vùng núi đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng (di sản thiên nhiên thế giới) với hang động ngầm lớn nhất thế giới Sơn Đoòng nằm trong khối núi đá vôi Phong Nha (4) Quảng Trị có cao nguyên đỉnh Trường Sơn ở Hướng Hóa, Đakrông và dải đồng bằng hẹp ở ven biển hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng. Nhìn chung, hai tỉnh cũ có điều kiện tự nhiên tương đồng và khi hợp nhất tạo nên một đơn vị hành chính mới với đầy đủ dạng địa hình từ núi cao, rừng già, trung du, đồng bằng cho đến biển đảo (3).

 

2.2 Khí hậu

Tỉnh nằm gọn trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa của Bắc Trung Bộ với đặc trưng nắng nóng, gió Lào gay gắt vào mùa hè và mưa bão tập trung vào cuối thu. Mùa (từ tháng 5 đến 8) thường có gió phơn Tây Nam khô nóng (gió Lào) khiến nhiệt độ có thể lên trên 40°C. Mùa thu đông (từ tháng 9 đến 12) thường có mưa lớn và bão từ Biển Đông, gây lũ lụt trên các sông ngòi. Cả Quảng Bình và Quảng Trị đều là những địa phương chịu ảnh hưởng nặng của thiên tai hàng năm (như trận lũ lụt lịch sử tháng 10/2020 nhấn chìm nhiều vùng). Nhiệt độ trung bình năm khoảng 24–25°C; độ ẩm cao (~84%). Phía tây trên núi cao khí hậu mát mẻ hơn và có mùa đông se lạnh.

 

2.3 Sông ngòi

Tỉnh mới có mạng lưới sông ngắn, dốc chảy từ Trường Sơn ra biển. Các sông lớn gồm: sông Gianh (ở Quảng Bình, dài ~160km) và sông Nhật Lệ (Quảng Bình) hợp từ sông Kiến Giang và Long Đại chảy qua Đồng Hới; sông Thạch Hãn (Quảng Trị, dài ~150km) chảy qua TP. Đông Hà; sông Bến Hải (Quảng Trị) gắn liền với vĩ tuyến 17 lịch sử; cùng nhiều sông suối nhỏ khác như Rào Nan, Rào Trổ (Quảng Bình)…., sông Hiếu, sông Ô Lâu (Quảng Trị)… Hệ thống sông tuy ngắn nhưng lưu vực rộng ở thượng nguồn do vây vào mùa lũ nước dâng nhanh, đồng bằng thường ngập, sau đó đổ ra biển qua các cửa sông như chính.

 

Trên sông Nhật Lệ - Ảnh Tuệ Minh

 

2.4 Tài nguyên rừng – biển

Quảng Trị mới sở hữu hệ sinh thái rừng, biển đảo và hang động phong phú. Đặc biệt, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và các khu dự trữ thiên nhiên là những mắt xích quan trọng tạo nên mạng lưới bảo tồn đa dạng sinh học và cảnh quan độc đáo. Tỉnh mới có đường bờ biển dài khoảng 200 km, với nhiều bãi biển cát mịn và cảnh quan đẹp, nổi tiếng với các bãi tắm Nhật Lệ, Quang Phú, Đá Nhảy, Cửa Tùng (từng được mệnh danh Nữ hoàng của các bãi biển Đông Dương) và bãi Cửa Việt, Mũi Trèo rất hoang sơ. Vùng biển nơi đây có ngư trường ven bờ rộng, giàu tiềm năng thủy sản  và tài nguyên khoáng sản sa khoáng (cát titan). Đảo Cồn Cỏ ngoài khơi Quảng Trị có hệ sinh thái biển đa dạng, là nơi có thể phát triển du lịch biển đảo và dịch vụ hậu cần nghề cá. Ngoài ra vùng tài nguyên ven biển là nền tảng để phát triển năng lượng xanh.

 

Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới với các tiêu chí địa chất - địa mạo, hệ sinh thái và đa dạng sinh học. Trong phạm vi khu Di sản này có  khoảng 1000 hang động đá vôi, rừng nguyên sinh giàu đa dạng sinh học gồm khoảng 2.900 loài thực vật và hơn 1.300 loài động vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm, nổi bật là khu hệ thú linh trưởng có số loài (11 loài) và các quần thể lớn nhất Việt Nam, đặc biệt voọc Gáy trắng là loài đặc hữu. Bên cạnh đó, với chức năng của mình hệ sinh thái rừng nhiệt đới ở đây đóng vai trò quan trọng trong điều tiết khí hậu, bảo vệ nguồn nước và phát triển du lịch sinh thái quốc tế.

 

Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu – Khe Nước Trong, quy mô 22.132 ha. Đây là vùng rừng nguyên sinh còn sót lại của dãy Trường Sơn với hệ thống nhiều hang động, suối nước trong, giàu loài linh trưởng, chim rừng và thực vật đặc hữu. Khu dự trữ là hành lang sinh học quan trọng kết nối Phong Nha và các hệ sinh thái phía Quảng Trị.

 

Khu dự trữ thiên nhiên Bắc Hướng Hóa có đến 283 loài thực vật (trong đó 59 loài quý hiếm) và đầy đủ các nhóm động vật (109 loài thú, 207 loài chim, 81 loài bò sát–lưỡng cư, 33 loài cá) . Với độ cao từ 150 đến 1.700 m, thiên nhiên nơi đây phát triển đa tầng, từ rừng thấp á nhiệt đới đến rừng ẩm nhiệt đới, cùng các loài như gà lôi lam mào trắng, sao la, voọc Hà Tĩnh… Bắc Hướng Hóa còn có vai trò quan trọng trong phòng hộ đầu nguồn cho sông Bến Hải, Rào Quán, Hiếu và Sê Păng Hiêng.

 

Khu dự trữ thiên nhiên Đakrông có diện tích 37.841 ha, tọa lạc tại bảy xã phía nam huyện cùng tên. Theo dữ liệu mới nhất, khu này lưu giữ tới 1.412 loài thực vật (24 loài trong Sách đỏ) và 612 loài động vật (37 loài Sách đỏ) . Là khu động thực vật điển hình của đồi thấp Bắc Trường Sơn, Đakrông có địa hình đồi núi thấp, độ chia cắt mạnh và nhiều suối thác, thích hợp cho phát triển du lịch sinh thái cộng đồng.

 

Khu dự trữ thiên nhiên biển đảo Cồn Cỏ, diện tích 4.532 ha, thành lập năm 2009. Nơi đây bảo tồn đa dạng san hô (113 loài), cá biển (224 loài, trong đó 49 loài kinh tế), rùa biển, cá heo và hệ sinh vật đáy phong phú.

 

Các khu bảo tồn và dự trữ thiên nhiên tại Quảng Trị mới tạo nên một mạng lưới sinh thái liên hoàn từ rừng núi cao đến biển đảo. Đây là nền tảng vững chắc cho chiến lược phát triển du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học, bảo tồn môi trường và góp phần chuyển đổi tỉnh thành mô hình phát triển xanh – bền vững.

 

Phong Nha. Ảnh Tuệ Minh

2.5 Khoáng sản

Tỉnh Quảng Trị mới có tài nguyên khoáng sản đa dạng nhưng phần lớn là quy mô nhỏ. Ở Quảng Bình có mỏ đá vôi, đất sét trữ lượng lớn phục vụ sản xuất xi măng (như mỏ đá vôi Hoàng Mai ở Quảng Trạch) và đá granit, đá quý ở miền tây. Quảng Trị có mỏ cát thủy tinh (silic) ở Cam Lộ, vàng sa khoáng nhỏ ở Đakrông, đá xây dựng ở Đông Hà, than bùn ở Hải Lăng... Đáng chú ý, cát ven biển Quảng Bình – Quảng Trị chứa khoáng sản Titan (TiO₂) với trữ lượng đáng kể, tiềm năng khai thác công nghiệp. Ngoài ra, nguồn nước khoáng nóng (Bang, Quảng Bình) cũng là tài nguyên để phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Tóm lại, tỉnh Quảng Trị mới có điều kiện tự nhiên đa dạng, hội tụ rừng vàng, biển bạc và vị trí địa lý chiến lược. Đây là nền tảng quan trọng để phát triển toàn diện nông – lâm – ngư nghiệp, du lịch sinh thái và kinh tế biển trong tương lai (3).

 

3. Kinh tế – xã hội của tỉnh mới

3.1  Nông nghiệp

Đây vẫn là nền tảng kinh tế quan trọng, với đất nông nghiệp trải dài từ đồng bằng dọc sông Gianh, sông Nhật Lệ (Quảng Bình) đến đồng bằng sông Thạch Hãn, Ô Lâu (Quảng Trị). Tỉnh mới có hai vùng trọng điểm lúa gạo: đồng bằng Lệ Thủy – Quảng Ninh (Quảng Bình) trồng giống lúa chất lượng cao (gạo Lệ Thủy thơm ngon) và đồng bằng Triệu Phong – Hải Lăng (Quảng Trị) nổi tiếng với gạo Hải Lăng. Sản lượng lúa của tỉnh hợp nhất ước khoảng trên 50 vạn tấn/năm. Ngoài ra, cây cao su là thế mạnh ở vùng gò đồi Quảng Bình (huyện Quảng Ninh) và Quảng Trị (Vĩnh Linh, Cam Lộ), với hàng chục nghìn ha cao su khai thác mủ. Hồ tiêu Quảng Trị (nhất là tiêu Cùa – Cam Lộ, Vĩnh Linh) thơm cay, đã từng là đặc sản xuất khẩu. Cây cà phê Arabica được trồng trên cao nguyên Khe Sanh (Hướng Hóa, Quảng Trị) cho chất lượng hạt tốt, tạo thương hiệu “cà phê Khe Sanh”. Bên cạnh đó, tỉnh mới còn có vùng cây ăn quả và rau màu đa dạng: thanh long, dứa, cao su, chuối, sắn… ở Quảng Bình; cam, chanh leo, chuối mật mốc ở Quảng Trị, v.v. Ngành thủy sản cũng nhiều tiềm năng: đánh bắt hải sản ven bờ (cá, mực), nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát ở Quảng Bình (Quảng Dương) và Quảng Trị (Gio Linh), nuôi cá nước ngọt ở hồ thủy lợi. Việc sáp nhập giúp tỉnh mới có vùng nông nghiệp rộng lớn hơn, khả năng hình thành các vùng chuyên canh quy mô và chuỗi giá trị nông sản hiệu quả hơn.

 

3.2   Công nghiệp và năng lượng

Quảng Bình và Quảng Trị trước đây công nghiệp còn quy mô nhỏ, nhưng hợp nhất sẽ tạo cụm công nghiệp – năng lượng liên hoàn ở khu vực Bắc Trung Bộ. Trên địa bàn tỉnh mới có một số dự án công nghiệp quan trọng: Tại Quảng Bình có Trung tâm điện lực Quảng Trạch (dự án nhà máy nhiệt điện khí than ~1.200 MW, đang triển khai) ở ven biển Hòn La – Quảng Trạch (3). Quảng Trị có kế hoạch phát triển Trung tâm năng lượng Quảng Trị tại huyện Hải Lăng (với các dự án điện khí LNG và nhiệt điện than công suất lớn, mặc dù còn đang kêu gọi đầu tư). Đặc biệt, điện gió là thế mạnh mới: khu vực Hướng Hóa (Quảng Trị) đã có hàng chục dự án điện gió trên đồi (tổng công suất khoảng 350 MW), lợi dụng gió núi quanh năm. Quảng Bình cũng có tiềm năng điện gió và điện mặt trời ở vùng cát ven biển Lệ Thủy, Quảng Ninh. Ngành khai khoáng và vật liệu xây dựng cũng chiếm tỷ trọng khá: tỉnh có nhà máy xi măng (xi măng Sông Gianh, Văn Hóa ở Quảng Bình), nhà máy gạch ngói, xưởng đá granite, chế biến gỗ rừng trồng… Các khu công nghiệp hiện hữu như KCN Tây Bắc Đồng Hới, KCN Hòn La (Quảng Bình) và KCN Nam Đông Hà, KCN Quán Ngang (Quảng Trị) sẽ bổ trợ lẫn nhau, tạo mạng lưới thu hút đầu tư sản xuất. Ngoài ra, tỉnh mới nằm trên hành lang năng lượng Bắc – Nam (có đường dây 500kV, 220kV đi qua), thuận lợi để hòa lưới các nguồn điện phát triển tại chỗ. Nhìn chung, hợp nhất tỉnh giúp tập trung nguồn lực phát triển công nghiệp, nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế.

Đồi điện gió Khe Sanh. Ảnh Huy Võ

3.3  Dịch vụ và du lịch

Dịch vụ sẽ hưởng lợi lớn từ quy mô tỉnh mở rộng. Du lịch Quảng Bình đã được khẳng định thương hiệu trên bản đồ du lịch Việt Nam, với lợi thế “vương quốc hang động”. Năm 2024, Quảng Bình đón trên 5 triệu lượt khách du lịch, doanh thu khoảng 6.000 tỷ đồng (5), các con số ấn tượng vượt thời kỳ trước dịch. Điểm đến nổi bật nhất là Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng với hệ thống hang động kỳ vĩ (Phong Nha, Thiên Đường, Sơn Đoòng…) thu hút du khách trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, Quảng Bình còn có những điểm đến yêu thích như Vũng Chùa - Đảo Yến, Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong.... du lịch biển (Đá Nhảy, Nhật Lệ, Bảo Ninh), du lịch văn hóa tâm linh ( Chùa Hoằng Phúc, Đền thời Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Chùa Non - Núi Thần Đinh).

Bản đồ các điểm du lịch chính. Thiết lập Tuệ Minh

Quảng Trị tuy ít nổi bật hơn về du lịch nhưng cũng có những điểm đến giàu ý nghĩa lịch sử và nhân văn: Thành cổ Quảng Trị, địa đạo Vịnh Mốc, đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải (biểu tượng hòa bình thống nhất), nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Khe Sanh – Tà Cơn,… Đây là tài sản quý giá để phát triển du lịch lịch sử – tri ân và giáo dục truyền thống. Ngoài ra, Quảng Trị có thánh địa La Vang (di tích Công giáo nổi tiếng thu hút khách hành hương), lễ hội thống nhất non sông (cầu Hiền Lương 30/4 hàng năm), các bãi biển Cửa Tùng, Cửa Việt. Sau sáp nhập, tỉnh mới có thể xây dựng các tour liên tuyến hấp dẫn kết nối di sản thiên nhiên Quảng Bình với di tích lịch sử Quảng Trị tạo sản phẩm đa dạng “biển – rừng – hang động – lịch sử” thu hút khách lưu trú dài ngày. Mục tiêu đặt ra là đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, xứng tầm với tiềm năng sẵn có. Bên cạnh du lịch, các ngành dịch vụ khác như thương mại, tài chính, vận tải, viễn thông, lưu trú, ẩm thực cũng sẽ phát triển hơn nhờ thị trường mở rộng và vị trí của tỉnh trên các hành lang giao thương khu vực (3).

 

3.4  Thương mại cửa khẩu và logistics

Tỉnh Quảng Trị mới sở hữu hai cửa khẩu quốc tế quan trọng bậc nhất trên tuyến hành lang Đông – Tây kết nối Lào, Thái Lan với Biển Đông. Đó là cửa khẩu Cha Lo (Quảng Bình) thông sang tỉnh Khăm Muộn (Lào) trên Quốc lộ 12A và cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị) thông sang tỉnh Savannakhet (Lào) trên Quốc lộ 9. Hai cửa khẩu này đều nằm trong Hành lang kinh tế Đông – Tây (EWEC): Cha Lo nối đến thủ đô Viêng Chăn và Bangkok; Lao Bảo nối đến Pakse và Bangkok, ra cảng Đà Nẵng. Hoạt động xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu rất sôi động, với các mặt hàng chính: gỗ, khoáng sản, nông sản, hàng tiêu dùng. Bên cạnh đó, còn có cửa khẩu La Lay (Quảng Trị) đi tỉnh Salavan (Lào) đang được đầu tư nâng cấp. Sau sáp nhập, tỉnh mới có thể tích hợp nguồn lực để phát triển kinh tế cửa khẩu đồng bộ hơn, hình thành khu kinh tế cửa khẩu quy mô lớn. Hiện đã có Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo (Quảng Trị) với nhiều ưu đãi thu hút đầu tư sản xuất, kho bãi, và Khu kinh tế cửa khẩu Cha Lo (Quảng Bình) đang quy hoạch. Đây sẽ là những đầu mối logistic quan trọng, giúp Quảng Trị mới trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa của khu vực Bắc Trung Bộ – Đông Dương.

 

3.5  Hạ tầng giao thông

Tỉnh mới nằm trên trục giao thông Bắc – Nam huyết mạch và cũng là cửa ngõ ra biển của Trung Lào và Đông Bắc Thái Lan. Các tuyến giao thông chính gồm: Quốc lộ 1Ađường sắt Thống Nhất chạy xuyên suốt tỉnh qua Đồng Hới, Đông Hà, là trục vận tải Bắc – Nam. Đường Hồ Chí Minh chạy dọc vùng núi (nhánh Đông qua Phong Nha, Khe Sanh; nhánh Tây sát biên giới) tạo thành trục thứ hai. Về cao tốc, đoạn cao tốc Bắc – Nam phía Đông qua Quảng Bình – Quảng Trị đang được xây dựng (dự kiến thông xe trước 2026), kết nối liên thông từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế, rút ngắn thời gian đi lại liên tỉnh. Ngoài ra, cao tốc Cam Lộ – La Sơn (một phần của cao tốc Bắc – Nam phía Tây) đã hoàn thành đoạn Cam Lộ – Đông Hà, sẽ nối tiếp đến Huế. Các tuyến quốc lộ ngang quan trọng: QL9 từ Đông Hà đi Lao Bảo (EWEC); QL12A từ Đồng Hới đi Cha Lo; QL15 (đường Hồ Chí Minh); QL9B, 9C kết nối nội tỉnh. Giao thông đường thủy nội địa có sông Nhật Lệ, sông Gianh, sông Thạch Hãn nhưng vai trò hạn chế do ngắn và nhiều thác ghềnh.

 

3.6   Cảng biển

Tỉnh Quảng Trị mới có lợi thế mở ra Biển Đông với hệ thống cảng biển đang phát triển. Ở Quảng Bình có cảng Hòn La (Quảng Trạch) nước sâu tự nhiên ~15m, có thể đón tàu vài vạn tấn, hiện phục vụ xuất nhập hàng rời (than, clinker, hàng bách hóa) và là điểm nhập nhiên liệu cho nhà máy điện Quảng Trạch. Quảng Bình còn cảng sông Gianh và cảng Nhật Lệ nhỏ phục vụ nội địa và nghề cá. Ở Quảng Trị có cảng Cửa Việt (TX. Quảng Trị) – cảng tổng hợp cho tàu đến ~5.000 tấn, hiện đang nâng cấp mở rộng. Đặc biệt, tỉnh đã khởi công cảng biển nước sâu Mỹ Thủy (Hải An, Hải Lăng) với quy mô 10 bến cảng, khả năng tiếp nhận tàu 100.000 tấn, kỳ vọng trở thành cảng cửa ngõ cho hành lang Đông – Tây. Khi Mỹ Thủy hoàn thành giai đoạn đầu (dự kiến sau 2025), Quảng Trị sẽ có cảng biển sâu hiện đại, tạo động lực lớn thu hút công nghiệp và thương mại cho cả vùng. Ngoài ra, khu vực Nhật Lệ – Hòn La cũng có thể phát triển cảng du lịch và cảng cá quy mô lớn (cảng cá Nhật Lệ hiện là cảng cá loại I ở Bắc Trung Bộ).

 

3.7  Hàng không

Hiện tại trên địa bàn có sân bay Đồng Hới (Quảng Bình) là sân bay nội địa cấp 4C, đường băng 2.400m, đang khai thác các đường bay đi Hà Nội, TP.HCM và chu kỳ cao điểm có bay Đà Nẵng, Hải Phòng. Sân bay này cũng phục vụ nhu cầu du lịch quốc tế (từng đón các charter từ Chiang Mai, Bangkok). Về lâu dài, Chính phủ định hướng Đồng Hới sẽ thành sân bay quốc tế nhỏ phục vụ du lịch Phong Nha. Bên cạnh đó, Dự án sân bay Quảng Trị (tại Gio Linh, Quảng Trị) đã được khởi công xây dựng từ 2021, quy mô đường băng 2.400m, dự kiến hoàn thành sau 2025. Khi đưa vào sử dụng, sân bay Quảng Trị sẽ cùng với Đồng Hới tạo thành cặp sân bay cách nhau ~150km, góp phần hoàn thiện mạng lưới giao thông của tỉnh mới. Người dân và doanh nghiệp trong tỉnh sẽ thuận lợi hơn trong đi lại, giao thương, rút ngắn thời gian tới các trung tâm kinh tế lớn.

 

Bản đồ cửa khẩu, cảng biển, cảng hàng không. Thiết lập Tuệ Minh

Nhìn chung, tiềm năng kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Trị (mới) là rất to lớn. Sự hợp nhất giúp tỉnh có quy mô đủ lớn để phát huy hiệu quả các dự án hạ tầng, công nghiệp và du lịch tầm cỡ, đồng thời tăng sức cạnh tranh vùng trong thu hút đầu tư. Lãnh đạo hai tỉnh cũng nhấn mạnh đây là cơ hội mang tính lịch sử để bứt phá, tạo liên kết vùng mạnh mẽ hơn và nâng tầm vị thế địa phương trong khu vực Bắc Trung Bộ và cả nước (3).

 

4. Con người, văn hóa và nguồn nhân lực

4.1 Dân số và cơ cấu

Tỉnh Quảng Trị (mới) có gần 1,87 triệu dân, trong đó khoảng 85% là người Kinh. Ngoài ra còn có các dân tộc thiểu số như Bru – Vân Kiều, Pa-Kô, Chứt Tà Ôi phân bố ở vùng núi Trường Sơn (chủ yếu tại các huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa của Quảng Bình và Hướng Hóa, Đakrông của Quảng Trị). Người dân Quảng Bình, Quảng Trị nổi tiếng với truyền thống cần cù, kiên cường và giàu lòng yêu nước. Trong chiến tranh, vùng “Đất lửa Quảng Trị” đã hứng chịu nhiều bom đạn nhưng con người vẫn anh dũng bám trụ, lập nên những chiến công . Chính những thử thách lịch sử đó đã hun đúc nên phẩm chất anh hùng, chịu thương chịu khó của người dân nơi đây.

 

4.2 Nguồn nhân lực trẻ

Cơ cấu dân số của tỉnh mới thuộc diện dân số vàng với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao (khoảng 60-65%). Đến cuối năm 2023, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Quảng Bình và Quảng Trị đều đạt xấp xỉ 70%, trong đó khoảng trên 30% có bằng cấp hoặc chứng chỉ nghề. Điều này cho thấy chất lượng nguồn nhân lực đang ngày càng được cải thiện. Các trung tâm đào tạo lớn trên địa bàn gồm có Trường Đại học Quảng Bình, các trường cao đẳng nghề, y tế ở Đồng Hới và Đông Hà. Hằng năm, lực lượng lao động trẻ dồi dào tốt nghiệp trung học phổ thông, đại học tạo nguồn bổ sung cho phát triển kinh tế – xã hội. Nhiều lao động của tỉnh còn đi làm việc ở các trung tâm công nghiệp lớn hoặc xuất khẩu lao động, tiếp thu kỹ năng và mang về nguồn vốn, góp phần nâng cao thu nhập bình quân của người dân (~49 triệu đồng/người năm 2024). Với lợi thế nguồn nhân lực trẻ, tỉnh Quảng Trị mới có thể đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự phát triển trong tương lai nếu sử dụng hợp lý (7).

 

4.3 Giáo dục và y tế

Mạng lưới giáo dục của tỉnh trải rộng khắp với hệ thống trường phổ thông ở tất cả các xã, phường. Tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở đạt 100%. Hai tỉnh cũ đều có truyền thống hiếu học, nhiều học sinh đạt giải quốc gia. Sau sáp nhập, các trường chuyên nghiệp sẽ được sắp xếp để nâng cao năng lực canh tranh, đặc biệt là cung cấp nguồn lực chất lượng cao cho toàn tỉnh và hướng xa hơn. Về y tế, tỉnh mới có 2 bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh (BV Hữu nghị Việt Nam – Cuba Đồng Hới và BV đa khoa tỉnh Quảng Trị), cùng hệ thống bệnh viện huyện, trạm y tế xã đảm bảo chăm sóc sức khỏe nhân dân. Việc hợp nhất sẽ tạo điều kiện đầu tư tập trung cho các cơ sở y tế lớn, thu hút bác sĩ giỏi về làm việc, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân địa phương.

 

4.4 Bản sắc văn hóa

Quảng Bình và Quảng Trị đều thuộc vùng văn hóa Bắc Trung Bộ đặc sắc, đóng vai trò cầu nối giữa văn hóa miền Bắc và miền Nam. Người dân hai tỉnh có giọng nói địa phương nặng và trầm (phương ngữ Bình Trị Thiên), tạo nét độc đáo trong tiếng Việt. Tỉnh mới rất giàu truyền thống văn hóa – lịch sử: là quê hương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp  và gắn liền với vĩ tuyến 17 - biểu tượng chia cắt và thống nhất đất nước. Nhiều lễ hội dân gian và tập quán đặc trưng vẫn được bảo tồn: Lễ hội đua thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang vào dịp Quốc khánh 2/9; lễ hội Chợ Đình Bích La (Triệu Phong, Quảng Trị) mùng 3 Tết; lễ hội Cầu Ngư của ngư dân ven biển; các điệu hò, vè xứ Quảng, Lễ hội đập trống của người Ma-coong… Khi sáp nhập, lãnh đạo hai tỉnh đặc biệt nhấn mạnh cần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống lịch sử của mỗi địa phương, coi đó là nền tảng tinh thần cho tỉnh mới phát triển(7).

 

Di sản văn hóa phi vật thể: Tỉnh Quảng Trị mới tự hào sở hữu nhiều di sản văn hóa phi vật thể quý giá. Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ – loại hình ca kịch dân gian đặc sắc – đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2017; Quảng Bình và Quảng Trị đều nằm trong số các địa phương có di sản Bài Chòi này(7). Hiện nay, nghệ thuật Bài Chòi được phục dựng, trình diễn tại nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa trong tỉnh nhằm tôn vinh giá trị truyền thống. Bên cạnh đó, Hò khoan Lệ Thủy (điệu hò lao động của nông dân vùng Lệ Thủy) đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2017, trở thành niềm tự hào văn hóa địa phương.  Quảng Trị cũng có các di sản phi vật thể tiêu biểu như Dân ca Bình Trị Thiên, tục lễ Arieu Ping của người Vân Kiều, nghệ thuật múa Trống hội (trong lễ hội đình làng)… Những di sản này chính là “tài sản mềm”, góp phần tạo nên bản sắc riêng có của vùng đất Quảng Bình – Quảng Trị, đồng thời là nguồn lực để phát triển du lịch văn hóa trong tương lai.

 

Tóm lại, về con người và văn hóa, tỉnh Quảng Trị mới có nguồn nhân lực trẻ, dồi dào, được rèn giũa trong truyền thống hiếu học, cần cù. Bản sắc văn hóa thống nhất mà đa dạng, vừa có nét chung của vùng “Bình Trị Thiên” xưa, vừa lưu giữ được các giá trị đặc thù của từng tỉnh. Đây chính là nền tảng xã hội vững chắc, là “sức mạnh mềm” để tỉnh Quảng Trị mới vươn lên phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới(7).

Với Già Làng Đinh Xon ở Lễ hội Đập trống của người Macong. Ảnh Tuệ Minh

 

5. Kết luận

Việc sáp nhập tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị theo Nghị quyết 1680/NQ-UBTVQH15 đã mở ra trang mới cho vùng đất giàu truyền thống này. Tỉnh Quảng Trị mới với quy mô lớn, tài nguyên phong phú, con người đoàn kết sẽ có điều kiện phát huy mọi tiềm năng sẵn có. Với vị trí chiến lược trên trục Bắc – Nam và hành lang Đông – Tây, kỳ vọng sẽ trở thành một đầu tàu kinh tế ở Bắc Trung Bộ, đồng thời giữ vững và tỏa sáng các giá trị văn hóa – lịch sử độc đáo của vùng “Đất lửa anh hùng” trong giai đoạn phát triển sắp tới (3).

 

Tiềm năng của tỉnh là rất lớn, nhưng để khai thác hiệu quả, cần có chiến lược phát triển hợp lý, cần thiết thực hiện: xây dựng mô hình phát triển xanh và bền vững, phát triển du lịch chất lượng cao dựa vào thiên nhiên và văn hóa, đẩy mạnh liên kết vùng với các tỉnh Bắc Trung Bộ, Lào, Thái Lan… Đồng thời, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và quản trị công là những yếu tố then chốt giúp tỉnh bứt phá trong giai đoạn mới. Đây là thời cơ vàng để tỉnh Quảng Trị mới chuyển mình mạnh mẽ, trở thành trung tâm phát triển năng động của khu vực Bắc Trung Bộ và cả nước.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị quyết số 1680/NQ-UBTVQH15 (16/6/2025) về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Quảng Trị năm 2025.

[2] Tiền Phong, “Sáp nhập Quảng Bình và Quảng Trị: Tạo không gian phát triển mới” (20/04/2025)

[3] Thanh Niên, “Họp bàn sáp nhập, lãnh đạo 2 tỉnh có hành động đoàn kết gây ấn tượng mạnh” (18/04/2025).

[4] Dân trí, “Bài Chòi được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” (25/04/2019).

[5]  Báo Quảng Bình, “Công bố số liệu kinh tế-xã hội năm 2024” (03/01/2025).

[6] VnEconomy, “Quảng Trị giải quyết việc làm cho hơn 6.500 lao động” (2023).

[7] Báo Chính phủ, “Hò khoan Lệ Thủy được ghi danh Di sản văn hóa Quốc gia” (2017).

Đăng ký tư vấn
Cùng chuyên mục

Đảo Cồn Cỏ - Nơi kết tinh giữa lịch sử và thiên nhiên

Đảo Cồn Cỏ, di sản lịch sử, du lịch Quảng Trị, hệ sinh thái biển, bảo tồn rạn san hô, địa chất núi lửa, chiến tranh Việt Nam, du lịch sinh thái, khu bảo tồn biển, phát triển bền vững

Nên chăng có một Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Quảng Trị để vươn tầm?

Miền Tây Quảng Trị mới – nơi hội tụ những cánh rừng nguyên sinh hùng vĩ, những con suối ngọc len lỏi giữa dãy Trường Sơn trùng điệp, là “lá phổi xanh” giàu đa dạng sinh học bậc nhất Việt Nam. Sau khi Quảng Bình và Quảng Trị sáp nhập, vùng đất này trở thành “điểm nối xanh” chiến lược trên trục Bắc – Nam, sở hữu cả di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha – Kẻ Bàng, các khu bảo tồn rừng đặc dụng và bản sắc văn hóa Chứt, Bru-Vân Kiều, Pa Kô độc đáo.

Ứng dụng công nghệ GIS, Viễn thám, IoT và AI trong quản lý tài nguyên

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và suy thoái rừng ngày càng nghiêm trọng, việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý tài nguyên rừng trở thành xu hướng tất yếu và cấp thiết. Bài viết này trình bày tổng quan hệ thống về các công nghệ tiên tiến gồm Hệ thống Thông tin Địa lý (GIS), viễn thám (Remote Sensing – RS), Internet vạn vật (IoT) và Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI) trong quản lý rừng, với trọng tâm phân tích các trường hợp ứng dụng tại Việt Nam và so sánh với xu hướng quốc tế.

Mô hình giám sát thiên tai áp dựng tại Phong Nha – Kẻ Bàng

Trên cơ sở nghiên cứu tác giả xây dựng  các bản đồ online, gồm: nguy cơ cháy, nguy cơ ngập, lụt, nguy cơ trượt lở. Mỗi loại bản đồ chia ra 5 cấp độ nguy cấp.  Tất cả dữ liệu phân tích được tích hợp vào hệ thống WebGIS ArcGIS Online, kết hợp với ứng dụng Survey123 cài đặt trên thiết bị di động (Android và iOS), cho phép thu thập thông tin hiện trường theo thời gian thực và tự động đồng bộ lên hệ thống.