Bán đảo Sơn Trà nơi chứa đựng giá trị thiên nhiên và văn hóa
31-07-2025 16:13
Location
Highlight Image
Đến với Sơn Trà
Bán đảo Sơn Trà chỉ cách trung tâm thành phố khoảng 10 km về phía đông bắc, bán đảo Sơn Trà vươn mình như tấm thảm rừng xanh thẫm bên bờ biển, là cánh rừng già duy nhất nằm giữa lòng một đô thị Việt Nam. Ngay khi đặt chân đến chân núi, tôi đã cảm nhận được bầu không khí mát lành tỏa ra từ những tán cây rậm rạp. Không phải ngẫu nhiên mà Sơn Trà được mệnh danh là “lá phổi xanh” của Đà Nẵng – nơi đây như lá chắn thiên nhiên điều hòa khí hậu và cung cấp dưỡng khí cho cả thành phố.
Từ xa xưa, Sơn Trà đã hiện diện trong nhiều thư tịch cổ. Nhà bác học Lê Quý Đôn từng ghi trong Phủ Biên Tạp Lục rằng núi Sơn Trà (tục gọi là hòn Nghê) “tương truyền trên núi có ngọc, đêm đêm ngọc chiếu sáng xuống biển. Người dân ở đây kể rằng, tiên thường hay giáng xuống để tắm, chơi đùa nên cũng gọi là núi Tiên Sa. Ngay cả vua Lê Thánh Tông thế kỷ 15 khi thân chinh vào đất Chiêm Thành cũng dừng chân ở cửa biển dưới chân Sơn Trà và làm thơ, cho thấy vùng biển này đã là nơi giao thương quốc tế sầm uất từ 600 năm trước. Sơn Trà không chỉ đẹp về cảnh quan mà còn chứa đựng biết bao câu chuyện lịch sử và huyền thoại. Tò mò và háo hức, tôi tiếp tục cuộc hành trình của mình, sẵn sàng khám phá những giá trị tự nhiên và văn hóa đặc sắc ẩn chứa trên bán đảo “độc nhất vô nhị” này.
Sơn Trà nơi chứa đựng giá trị thiên nhiên
Bán đảo Sơn Trà sở hữu hệ sinh thái rừng nhiệt đới nguyên sinh đặc thù, nơi mà hệ thực vật và động vật vô cùng đa dạng. Các nghiên cứu cho thấy số loài thực vật ở Sơn Trà chiếm tới 14% tổng số loài thực vật Việt Nam; còn số loài chim di cư qua đây chiếm khoảng 13,2% tổng số loài chim di cư của cả nước. Điều đặc biệt là Đà Nẵng nằm ở vùng tiếp giáp khí hậu Bắc – Nam, nên rừng Sơn Trà có sự giao thoa sinh học của cả hai miền, vừa có loài đặc trưng phía bắc vừa xuất hiện loài tiêu biểu phía nam. Hệ động vật nơi đây có đủ từ nai, chồn, hoẵng đến các loài linh trưởng quý hiếm như khỉ vàng, voọc... – tất cả cùng chung sống trong “công viên khổng lồ” giữa lòng đô thị sôi động này.
Toàn bán đảo có khoảng 20 con suối lớn nhỏ chảy theo mùa, trong đó có suối Đá và suối Heo là hai nguồn nước chính cung cấp nước ngọt cho cư dân quanh vùng. Quả thật, Sơn Trà đã hào phóng ban tặng cho Đà Nẵng nguồn nước mát lành và cả bầu không khí trong trẻo. Bán đảo rộng khoảng 4.400 ha này được bao phủ chủ yếu bởi rừng kín thường xanh nhiệt đới. Tuy con người đã tác động làm diện tích rừng thu hẹp dần (theo Green Việt đến năm 1989 chỉ còn khoảng 67% diện tích đảo là rừng).
Voọc chà vá chân nâu là loài linh trưởng đặc hữu Đông Dương, xếp hạng Cực kỳ nguy cấp (CR) trong Sách Đỏ Việt Nam và IUCN là loại đặc trưng với quần thể lớn trên bán đảo này. Theo điều tra của GreenViet, vào năm 2017 bán đảo có khoảng 1.300 cá thể voọc, và khảo sát mới đây cho thấy con số đã tăng lên hơn 2.000 cá thể – chiếm phần lớn số voọc chà vá chân nâu ngoài tự nhiên hiện nay trên thế giới.
Bên cạnh voọc chà vá, Sơn Trà còn là nhà của nhiều loài động vật quý hiếm khác. Theo thống kê, khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà ghi nhận tổng cộng 1.679 loài động thực vật, trong đó có 1.010 loài thực vật bậc cao và 366 loài động vật có xương sống. Riêng lớp thú có 42 loài, chim 162 loài, bò sát 55 loài, ếch nhái 22 loài, côn trùng 231 loài. Đáng chú ý, có 68 loài (10 thực vật, 58 động vật) thuộc hàng nguy cấp, quý hiếm hoặc đặc hữu được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam và danh lục đỏ IUCN, CITES. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của Sơn Trà về bảo tồn đa dạng sinh học. Trong một diện tích rừng chưa đầy 0,014% diện tích cả nước mà Sơn Trà có tới gần 9,4% số loài thực vật bậc cao của Việt Nam và 22 loài thực vật quý hiếm. Hệ thực vật ở đây phong phú từ các loài gỗ lớn đến thảo dược, cây ăn quả rừng. Tôi chú ý thấy dọc đường có rất nhiều cây đa cổ thụ rễ buông chằng chịt, tán xòe rộng che mát cả một góc rừng.
Bản đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 Đà Nẵng – Hội An (1986) và nghiên cứu của Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản (2010), bán đảo Sơn Trà có cấu trúc địa chất phức tạp, thuộc khối nâng cổ Kon Tum, là rìa phía đông bắc của khối này, tiếp giáp với dải trũng sông Hàn. Địa hình Sơn Trà được tạo thành chủ yếu bởi các thành tạo magma xâm nhập granit-biotit có niên đại khoảng 260–250 triệu năm (thuộc Kỷ Permi muộn, cuối Đại Cổ Sinh).
Theo Nguyễn Văn Phách (1995), một số khu vực ven chân núi và ven biển có lớp trầm tích Đệ Tứ (Q2, Q1), chủ yếu là cát, cuội, sét – chứng tỏ từng có hoạt động biển và xói mòn mạnh trong thời kỳ băng hà gần đây. Đặc biệt, sự hiện diện của đá granit phân khối lớn, bị phong hóa tạo thành các khối đá hình tròn, hình nấm – gọi là “tor” hoặc địa hình đá lở – là đặc trưng dễ thấy ở các sườn núi Sơn Trà. Dưới tác động của phong hóa vật lý (nhiệt độ chênh lệch ngày đêm) và phong hóa hóa học (ẩm mốc, mưa axit), các khối đá granit bị nứt dọc, nứt ngang tạo thành hình khối độc đáo. Một vài vách đá dựng đứng ven biển như “đá ông Nghè” hay “đá đầu voi” là minh chứng cho quá trình xâm thực biển kết hợp đứt gãy địa chất cổ xưa.
Lê Trọng Hùng et al. (2016) cho rằng, Sơn Trà là bán đảo duy nhất có hệ núi cao sát biển còn lại ở Trung Bộ Việt Nam. Địa hình chủ yếu là núi cao, dốc mạnh về phía biển, thấp dần về hướng thành phố, với đỉnh cao nhất là đỉnh Bàn Cờ – 693 m. Ba mặt bán đảo giáp biển tạo nên địa hình đặc hữu “núi sát biển”, tạo nên vi sinh cảnh độc lập mà nhiều chuyên gia xem là “đảo sinh thái trên đất liền”【4】. Tại nhiều vách núi ven bờ, sóng biển xâm thực tạo nên hang, hốc đá, bờ biển mài mòn, góp phần đa dạng sinh thái biển – bờ.
Đáng chú ý, theo phân tích ảnh vệ tinh và bản đồ địa hình, Sơn Trà từng là một đảo biệt lập ngoài khơi. Trong thời kỳ cuối Pleistocen (cách đây khoảng 10.000 – 12.000 năm), mực nước biển dâng lên sau kỷ băng hà đã tạo ra đường bờ hiện tại. Cát từ dòng sông Hàn và sông Cu Đê bồi lắng dần dần hình thành dải đất nối liền Sơn Trà với đất liền, biến đảo thành bán đảo như ngày nay (Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Hữu Quý, 2000). Quá trình này được các nhà nghiên cứu gọi là “hiện tượng gắn kết địa hình qua tiến hóa bồi tụ ven biển” – một cơ chế hiếm gặp ở khu vực Trung Trung Bộ.
Chính sự kết hợp giữa địa hình đồi núi dốc, vách đá ven biển dựng đứng, sự đa dạng của đất đá nền (granit, phiến sét, trầm tích Đệ Tứ) cùng lịch sử hình thành từ đảo biệt lập, đã khiến Sơn Trà trở thành “hòn ngọc địa chất” quý hiếm, góp phần hình thành đa dạng sinh học phong phú mà chúng ta thấy ngày nay. Nhờ cấu trúc đá granit cổ – loại đá ít giữ nước – nên Sơn Trà có nhiều dòng suối chảy nhanh, tạo ra thảm thực vật tầng thấp phát triển tốt và các bãi đá phong hóa ven biển là nơi trú ngụ của các loài sinh vật đặc hữu ven bờ như cua đá, ốc biển, san hô tảng nông...
Các giá trị văn hóa
Đỉnh cao nhất của Sơn Trà – đỉnh Bàn Cờ, nơi có độ cao gần 700 m so với mực nước biển.. Từ đỉnh Sơn Trà, phóng tầm mắt ra bốn phía đều bao quát cửa biển chiến lược. Chính vị trí đắc địa này đã khiến Sơn Trà mang tầm quan trọng quân sự trọng yếu suốt chiều dài lịch sử. Vào thời nhà Nguyễn, vùng núi và vịnh Trà Sơn được xem như “chỗ trọng địa của bờ biển” cần kiểm soát nghiêm ngặt. Vua Minh Mạng thậm chí cấm triệt để tàu thuyền ngoại quốc lưu trú lâu ở vũng Sơn Trà, không cho người nước ngoài lên núi hay lập phố buôn bán, nhằm bảo vệ hải cương của đất nước. Triều đình nhà Nguyễn đã xây dựng cả một hệ thống phòng thủ kiên cố tại đây – hệ thống phòng thủ Sơn Trà được xem là vững chắc nhất trong các cửa biển của Việt Nam thời đó. Trên đỉnh núi, vào năm 1857 triều đình cho xây đồn Trấn Dương để quan sát tàu thuyền từ xa và ngăn địch chiếm điểm cao chiến lược. Dưới chân núi phía tây (mỏ Diều), danh tướng Nguyễn Tri Phương cho xây pháo đài Phòng Hải (1841) với thiết kế hai tầng, đặt hàng chục đại bác chĩa ra cửa biển. Sơn Trà khi ấy bị cấm người lạ lui tới – từng có trường hợp năm 1830 một người Pháp lén lên núi, vua Minh Mạng đã cách chức hai viên thủ ngự cửa thành vì lơ là nhiệm vụ. Những điều đó cho thấy triều Nguyễn coi trọng Sơn Trà đến mức nào trong việc bảo vệ kinh đô Huế từ hướng biển.
Bề dày lịch sử của Sơn Trà còn gắn liền với dấu mốc ngoại xâm. Chính tại vùng biển dưới chân bán đảo này, rạng sáng ngày 1/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã nổ phát súng đầu tiên mở màn cuộc xâm lược Việt Nam. Sơn Trà trở thành chiến trường những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Gần một thế kỷ sau, trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ thiết lập trên đỉnh Sơn Trà một trạm radar chiến lược và căn cứ quân sự – họ gọi nơi này là “Monkey Mountain” (Núi Khỉ) trên bản đồ quân sự. Tàn dư thời chiến vẫn còn đó: trên đường lên đỉnh Bàn Cờ, tôi thấy thấp thoáng vài bệ bê tông cũ, có lẽ từng là trận địa pháo hoặc đài quan sát năm xưa.
Trên đỉnh Bàn Cờ lộng gió, tôi bắt gặp tượng Đế Thích ngồi trầm ngâm bên bàn cờ đá – dấu tích hiện hữu của một truyền thuyết nổi tiếng gắn liền với nơi này. Tương truyền thuở xưa có hai vị tiên ông thường giáng trần, rủ nhau đánh cờ trên đỉnh núi Sơn Trà. Ván cờ kéo dài nhiều ngày vẫn bất phân thắng bại. Cho đến một hôm, các tiên nữ từ trời bay xuống bãi biển dưới chân núi để tắm mát. Mải ngắm nhìn tiên nữ vui đùa dưới nước, một tiên ông lơ đễnh để đối thủ chiếu tướng thắng cuộc. Thua cờ tức quá, tiên ông hất tung bàn cờ xuống biển rồi bay về trời. Bãi biển nơi các tiên nữ tắm năm xưa từ đó được gọi là bãi Tiên Sa – nay chính là bãi biển Tiên Sa xinh đẹp phía bắc bán đảo. Còn bàn cờ tiên thì tương truyền hiện vẫn nằm đâu đó dưới lòng biển sâu như một minh chứng cho câu chuyện huyền thoại. Để tưởng nhớ truyền thuyết này, người dân Đà Nẵng đã tạc tượng Đế Thích ngồi đánh cờ một mình trên đỉnh núi. Mỗi năm, hàng ngàn du khách tìm tới đỉnh Bàn Cờ, thích thú ngồi vào “cùng đánh cờ” với ông tiên, chụp ảnh lưu niệm như thể đang lạc bước vào chốn bồng lai tiên cảnh. Giữa khung cảnh mây núi phiêu bồng, tôi cũng không quên lưu lại cho mình một tấm ảnh kỷ niệm bên bàn cờ đá để “minh chứng” rằng mình đã từng đặt chân đến chốn này.
Chùa Linh Ứng ở bãi Bụt, nằm ở sườn phía nam bán đảo. Ngôi chùa mới xây tuy không cổ kính nhưng lại nhanh chóng trở thành một điểm hành hương và tham quan nổi tiếng. Khuôn viên chùa rộng tới 20 ha, được khởi công năm 2004 và khánh thành năm 2010. Ngay từ xa, du khách đã có thể thấy bức tượng Bồ Tát Quán Thế Âm màu trắng tinh khôi đứng uy nghi hướng mặt ra biển. Tượng cao 67 m, đường kính tòa sen 35 m, từng được xem là tượng Phật cao nhất Việt Nam khi hoàn thành.
Triều đình nhà Nguyễn từng coi Sơn Trà là một “vùng đất thiêng”, tương truyền trên núi có viên ngọc quý tỏa sáng về đêm, nên đã sắc phong thờ cúng thần núi Trà Sơn để cầu quốc thái dân an. Vua Tự Đức thậm chí còn ban lệnh cấm khai thác gỗ đá, than củi ở Sơn Trà và núi Non Nước, để “cho mạch đất được hồi lại” – một quyết định thể hiện tầm nhìn bảo vệ môi trường từ thế kỷ 19. Có thể nói, Sơn Trà vừa mang giá trị cảnh quan tự nhiên độc đáo, vừa chứa đựng giá trị tâm linh, văn hóa sâu sắc. Mỗi ngọn núi, mỗi bãi biển nơi đây đều gắn liền với một sự tích hay dấu ấn lịch sử nào đó, tạo nên bản sắc riêng của “hòn ngọc” Đà Nẵng.
Bảo tồn các giá trị đảo Sơn Trà
Trước hết, đó là tình yêu và ý thức trách nhiệm của con người đối với Sơn Trà. Từ các vị vua triều Nguyễn xưa kia quyết tâm giữ rừng núi linh thiêng, đến người Đà Nẵng ngày nay sẵn sàng ký tên, xuống đường bảo vệ bán đảo trước dự án lớn– tất cả đều chung mục đích gìn giữ “viên ngọc xanh” cho muôn đời sau. Thứ hai, sự can thiệp kịp thời của chính quyền với tầm nhìn dài hạn rất quan trọng. Việc thành lập khu bảo tồn từ sớm (1977) và liên tục củng cố quy chế quản lý đã tạo nên một vành đai pháp lý bảo vệ Sơn Trà khỏi bị xâu xé. Ngay cả khi phát triển du lịch, chính quyền cũng xác định hướng đi bền vững, ưu tiên bảo tồn lên hàng đầu
Yếu tố quan trọng không kém là vai trò của khoa học và cộng đồng trong bảo tồn. Sơn Trà được các nhà khoa học nghiên cứu kỹ lưỡng, cung cấp dữ liệu quý về sinh thái (như con số 985 loài thực vật và 36 loài thú được ghi nhận từ thập niên 1970, hay điều tra mới nhất cho thấy hơn 2.000 cá thể voọc đang sinh sống). Những bằng chứng khoa học này đã thuyết phục nhà quản lý về giá trị đặc biệt của bán đảo. Đồng thời, cộng đồng địa phương – từ người dân, nhiếp ảnh gia đến học sinh, sinh viên – khi hiểu được giá trị Sơn Trà cũng đã hành động: không săn bắt, không xả rác, tình nguyện làm “người gác rừng” báo cáo vi phạm.
Để Sơn Trà mãi mãi xanh, cần tiếp tục phát huy những gì đã làm được. Đó là duy trì giáo dục và nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ về tình yêu thiên nhiên. Đó là phát triển du lịch sinh thái có trách nhiệm – như những tour xem voọc hay cắm trại hạn chế số lượng – để du khách được trải nghiệm vẻ đẹp hoang dã mà không làm tổn hại nó. Thành phố cũng nên nghiên cứu áp dụng công nghệ vào quản lý, ví dụ thiết lập hệ thống camera giám sát cháy rừng hay theo dõi động vật. Việc kết nối Sơn Trà với các khu bảo tồn lân cận (như Hải Vân – Bạch Mã ở phía bắc) cũng đáng cân nhắc, tạo hành lang xanh liên tục cho động vật di chuyển và tăng tính nguyên vẹn sinh cảnh. Quan trọng nhất, mọi quy hoạch phát triển cần có đánh giá tác động môi trường nghiêm túc, lấy ý kiến chuyên gia bảo tồn để đảm bảo “không đánh đổi thiên nhiên lấy kinh tế” – như tinh thần vua Minh Mạng từng quán triệt từ xưa.
Phong Nha Việt
Similar destination
04-05-2025
DMZ – A Landscape Shaped by War and Memory
26-04-2025
Vinh Moc Tunnels – Light Beneath the Earth
07-04-2025